- Sư thầy cũng tin có ma quỷ? - cụ Bảy hỏi giọng chắc nịch.
- Có chứ, hề là người đều có phần vong linh phần doc truyen sex, truyen heo, truyen dam moi nhat xác, khi tắt hơi đi chỉ còn phần hồn. Thường thì vong linh sẽ sang đầu thai làm kiếp khác, nếu không thì có chuyện gì uẩn khúc phần linh hồn mới quanh quẩn như vậy.
day la noi dung footer
1. Cuộc gặp sáng đầu năm
Sáng mồng một Tết, vạn đánh vật vẫn còn đắm chìm trong sương đêm. Giưã khoảnh khắc tinh khôi của ngày đầu năm mới, sư Thiện Pháp muốn đứng một mình, nhắm mắt xuôi tay hít lấy cái mật ngot của cuộc sống, uống lấy cái tinh túy của sương đêm. Sư như nghe được tiếng trở mình của gió qua lá cây, tiếng rủ rỉ của cụ già hát xẩm lẩn khuất ở ngoài gốc cây Gạo vọng lại lúc xa lúc gần.
Ngày đầu năm, ai cũng hi vọng khởi sự thật an lành, mọi việc đều hanh thông thuận lợi, chẳng ai muốn rước điềm xui, điềm rủi vào mình. Nhưng phàm là con người ở đời, có gặp họa mới thấy cái may mắn ngắn chẳng tày gang, có đạt được niềm vui sau họa mới biết quý, biết giữ gìn. Nhưng mà ít ai nhận ra được điều đó, ai cũng sử dụng man di cách để đạt được niềm vui, để thỏa mãn cái nhu cầu của bản thân. Đó là điều động mà Phật đã răn dạy từ lâu, trằn trọc từ lâu.
Nén tiếng thở dài, không muốn phá vỡ cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái của doc truyen sex, truyen heo, truyen dam moi nhat ngày đầu năm, sư Thiện Pháp khua từng tiếng chổi thật nhẹ, gom từng chiếc lá về góc sân, châm một mồi lửa. Bập bùng cháy một hồi, đám lá tiền còn lại dúm tro trên nền đất xám xịt, mọi thứ rốt cuộc cũng quay về cát bụi mà thôi.
Nhấm ngụm nước chè ngọt chát, sư gióng ba hồi chuông rồi tiến ra đại điện vãng cảnh chùa. Người đi chùa lễ Phật cũng đồng cân lác đác, ai cũng rì rầm khấn vái, xì xụp cúi lạy, chắc chẳng có gì hơn ngoài việc cầu cho một năm mới thuận lợi, vạn sự như ý, gia đạo toàn tài, sức khỏe đến nhanh. Trên hết sức điện ánh hào quang đãng của Bổn sư thích ca sáng cả một vùng, một nụ cười nhẹ nhàng trên khuôn mặt người, thấy thật ấm, thật an nhiên.
Sư Thiện Pháp trông thấy một cô gái mặc bộ bà ba, cổ đeo chiếc dây dướng chuyền có hình Quan Âm lấp lánh, nãy giờ đứng trước tượng Thích ca rất lâu, mắt không hề chớp, cũng chẳng quỳ lạy khấn vái như những Phật tử ở kia. Sư thấy lạ, giữa người thiếu nữ và Đức Phật có cuộc trò chuyện không lời nào chăng?
Bất chợt, cô gái chắp tay vái một lạy rồi tách khỏi đoàn người, tiến thẳng vào khu nhà vườn sau đại điện. Dặn dò danh thiếp môn đồ vài điều, sư Thiện Pháp lui ra sau phía sau, kiếm tìm cô gái. Sư lắng nghe nghe một hồi, nhận thấy có tiếng khóc ở phía gốc Si đằng trước, giữa khung cảnh thanh vắng, tiếng khóc nổi lên nghe ai oán não nùng, sư Thiện Pháp chong đèn tiến về phía trước.
- Người ta nói có chuyện buồn đến mấy thì ngày đầu năm cũng cho nên nén những giọt nước mắt. Ắt hẳn thí chủ phải có chuyện gì rất buồn? - sư Thiện Pháp cất tiếng hỏi khiến cô gái giật thột quay lại.
- Mô phật, bẩm bạch thầy, con có gì mạo phạm đến nhà chùa hi vọng bạch thầy đại lượng xá cho! - cô gái nói đứt quãng, vẫn còn vẻ sợ sệt như thường.
Sư Thiện Pháp cười lớn, có cảm nhận như mái ngói rêu mốc trên chái bếp cũng rung theo tiếng cười của sư:
- Nhà Chùa luôn mở cửa Phật với mọi chúng sanh, nếu bố thí chủ thấy khóc mà nhẹ lòng hơn, tĩnh tâm hơn thì không có khuyết điểm gì.
- Bạch thầy không hỏi con tại sao lại ngồi khóc ở nơi này sao?
- Vạn đánh vật đều có căn nguyên, nếu thí chủ muốn giãi bày, ắt hẳn bố thí chủ sẽ lên tiếng. Đâu cần bổn tọa mở lời!
Tiếng sư Thiện Pháp nhẹ nhàng, lúc trầm lúc bổng khiến cô gái vẫn còn chút e sợ.
Lau vội giọt nước mắt, cô cúi chào sư rồi quay lưng ra cổng, mới thông thoáng đó đã không thấy nữa.
Sư Thiện Pháp tắt đèn, ngẩng người nhìn theo rồi lắc đầu, chừng như nữ bố thí chủ này có điều gì u uất đến cực đỉnh thì khóe mắt mới ánh lên cách nhìn như vậy. Phàm là cớ gì thì mang một nỗi tâm tình như vậy trong lòng cũng không hay.
Bát giác sư thấy lạnh run người, ngày đầu năm đâu có những đợt gió chướng như vậy. Một cảm giác lạ lùng xâm chiếm tâm tưởng của sư, sư Thiện Pháp chiêm bao hồ lúc ở gần cô gái cũng cảm nhận được một cái lạnh đến u uất này.
...
2. Khúc sông làng Bích
Buổi chiều nghỉ chân ở quán nước dưới gốc cây gạo, sư Thiện Pháp uống vội ngụm nước chè rồi trầm tư nghe tiếng xẩm của cụ Bảy. Những người lang thang, dáng dấp lữ hành thường giỏi một ngón nghề gì đấy. Cụ Bảy cũng thế, không ai biết cụ đến làng này từ bao giờ, tiền biết cụ đã ngồi hát xẩm và nỗ lực với con đò của mình lâu lắm rồi, đặc biệt ngón đàn và cái giọng trầm đục rủ rỉ của cụ thì ai nghe cũng chờn. Tiếng hát xẩm của cụ Bảy khiến sư Thiện Pháp bất động hồi lâu, cảm giác những dính dáng tâm thần như thắt lại, từng lông măng đặt để cả lên.
Cụ Bảy ngừng lại ngước đôi mắt về phía sư bật cười:
- Sư thầy đi hóa duyên về đó hử?
- Bẩm cụ báo cáo vâng, tiếng đàn cụ hay quá!
- Sư thầy không biết, trong đàn cũng có vong hồn phách, mình ve vuốt cưng nựng nó thì nó mới chịu cho mình cái tiếng nó trong thế. Cây đàn này nỗ lực với tôi lâu lắm rồi, nhiều khi nó là con, là bạn, là tri kỉ từ hồi nào tôi chẳng biết nữa.
Sư Thiện Pháp gật gù, mời cụ chén nước chè rồi cả hai ngồi đàm đạo.
Bà Bổi ve vẩy cái quạt phá tan cuộc trò chuyện của hai người:
- Độ rày có ai mời sư thầy đi tụng kinh, cúng quẩy gì không?
Sư Thiện Pháp đang dở chuyện, ngẩn người tạo vật lại:
- Không bà ạ, trong chùa nhà ai có đám hiếu hay có lễ lược gì đấy thì mời nhà chùa đi thôi. Những việc cúng quẩy, cúng tế chúng tao không nhận.
Nhổ phịt ngụm trầu đỏ tươi như máu, bà Bổi đon đả:
- Thế hử, tôi là tôi hỏi thế thôi, bởi độ rày tôi nghe khúc sông dưới xóm Bích nhiều người đuối nước lắm, từ giêng đến giờ mới có ba tháng, thế mà đã "đi" những bốn người rồi. Khúc sông ấy bấy nay vẫn tắm giặt bình thường, từ ngày đó đến giờ vắng tanh, trông càng u ám.
Đột nhiên bà Bổi quay sang cụ Bảy hỏi khẽ:
- Cụ hay chèo qua khúc sông ấy, thế có biết nguyên nhân ấy làm sao không?
Cụ Bảy vẫn hướng đôi mắt trầm đục của mình ra xa, lặng im một hồi. Thế rồi trong cổ họng cụ từng chữ bật ra như có ai đang bóp nghẹn :
- GIEO NHÂN GÌ THÌ GẶT QUẢ ĐẤY
Cái quạt trên tay bà Bổi dừng hẳn, mấy người khách ngồi quanh cũng xúm hết cả lại, một người cất tiếng:
- Cụ nói thế là ý gì hả cụ?
- Tôi nói xàm đấy, mọi người đừng để ý, cái gì cũng có cái lý của nó, tôi đoán chắc có gì uẩn khúc trong chuyện này cho nên nói bừa vậy thôi. Mọi người cứ nghỉ, tôi đi đây.
Xếp lại hộp đàn, cụ Bảy bỏ đi dưới ánh mắt ngờ ngạc của mọi người. Đợi cụ đi khuất, bà Bổi chép miệng:
- Có nguyên nhân gì thì cũng hi vọng đừng có ai bỏ xác dưới đáy sông đó nữa. Tội nghiệp, lạnh lẽo lắm, đơn chiếc lắm.
Sư Thiện Pháp nãy giờ trầm ngâm. Dáng điệu và cả câu nói của cụ Bảy không phải bật ra một cách thiên nhiên như vậy. Vốn dĩ xưa nay cụ kiệm lời và kĩ tính lắm, đâu dễ nói bừa ra một câu như vậy.
Trả đồng cân nước cho bà Bổi xong, sư giục hai chú tiểu theo phụ mình sửa soạn tay nải về chùa.
Thoáng chốc, bóng của ba sư đồ đã khuất sau rặng tre. Mặt trời đất sắp lặn quét một màu đỏ vô vàn kéo dài đến tận khúc sông cuối làng Bích. Nhìn về hướng ấy bây chừ nom rợn hết cả người, tiếng mấy con vạc đi ăn đêm vọng lại càng khiến ai nhìn cũng chả dám nhìn lâu.
3. Tiếng khóc ở dốc Miếu Đôi
Lão Trì đi thả vó ở mé sông từ chập tối, đó là thời khắc chấp nhận ý nhất của lão, đố ai trông thấy lão đi thả vó ban ngày. Ra cái chòi ngoài bãi sông, lão Trì lầm lụi cất vó rồi thắp điện văn bằng cái mô tơ đem theo để nhử mồi. Rít điều thuốc lào cho ấm bụng, lão ngồi ngơ ngẩn ngó ra mặt nước loang loáng ở đằng xa.
Cái bụi tre ở rìa sông chẻ ra làm hai như chỏm tóc đứa trẻ con lên ba nom thật dị thường. Hôm nay trúng đêm rằm, trăng sáng vằng vặc chiếu xuống mặt sông thật đẹp. Lão Trì phê thuốc ngồi nhẩm nha mấy câu ả đào:
"Hiên thì thấp thoáng trăng tròn. . gió vàng hắt hiu như gương mặt sầu...niềm tâm tư thấp cao man di lẽ. . cảnh ngộ này biết kể cùng ai"
Giọng lão Trì rền rĩ nghe câu được câu mất. Lão đờ đẫn nhìn trời, nhìn sông thấy cảnh như trong thơ Lý Bạch. Lão hồi nhỏ cũng đi học, rồi cái đói cái nghèo khiến lão bỏ ngang dẫu cho lão học cũng không đến nỗi tệ, lão cũng biết đâu bài bài thơ Đường, rồi thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ.... để giắt lưng đọc chơi. Lão văng tục:
- Mẹ kiếp, cái chốn tiên cảnh thế này mà thánh sư đứa nào kháo chuyện bậy bạ.
Từ độ chưa có câu chuyện mà man di người bàn tán kia, khúc sông này buổi tối rộn rịp lắm. Ngoài lão Trì đi thả vó ra còn mấy đứa nhỏ đi soi ếch với chiếc đèn bấm nhỏ xíu, chúng hay lên chòi lão chơi, ngồi nghe lão kể chuyện bên Tây bên Tàu, vậy mà nay vắng tiệt , đố có đứa nào léo hánh đến khúc sông này. Lão Trì hoá buồn thúi ruột, chả biết chuyện trò với ai. Ngẩm nga thêm tí teo nữa, lão ngủ sớm để khuya dậy kéo vó.
Cái tiết trời tháng năm nóng hừng hực vậy mà giờ lạnh buốt, từng cơn gió cứ thốc vào mái chòi của lão Trì từng đợt từng đợt. Lão kéo chiếc chăn che kín chân rồi mà vẫn lạnh. Chửi đổng vài câu, lão lọ mọ dậy châm điếu thuốc ngồi ngáp ngắn ngáp dài. Trong bóng đêm mù mịt kia, điếu thuốc lão Trì đỏ rực, nhập nhòe như mấy con ma đuốc. Lão chả sợ cha nội con nhà ma nào, từ thuở cha nội sanh mẹ đẻ đến giờ, đi đêm đi hôm lão chả biết con ma nó hình thù ra làm sao, có đáng sợ như dân gian đồn đại không, mà nếu có chắc lão cũng hù cho nó chạy té khói. Nghĩ vậy, lão cười.
Bất chợt, lão nghe vẳng lại tiếng khóc từ phía dốc Miếu Đôi, trước hết là nghe loáng thoáng sau đó rõ dần rồi rít lên từng chặp nghe ai oán não nề. Hẳn như người khóc có chuyện gì buồn đến thảm thiết thì tiếng khóc mới thê tiền lương như vậy. Lão Trì dỏng tai nghe, có tiếng phụ nữ rồi cả tiếng trẻ em nữa. Quái lạ, khuya vầy rồi ai còn dắt con đi chơi nữa chứ. Tiếng khóc vọng lại mỗi lúc một rõ, nghe rờn rợn.
Cho chiếc ghe tấp vào bờ, lão Trì tiến lại gần cái miếu dốc Đôi. Cái miếu này bỏ hoang đã lâu, chỉ thắp mỗi cái bóng đèn hạt lựu đỏ choét nhìn là muốn bỏ chạy. Từ khi trời đất ơi nhập nhoạng đã chẳng thấy ai dám bén mảng ra chốn này.
Lão Trì mỗi lúc mỗi gần dốc Miếu hơn, bây giờ chỉ nghe tiếng khóc của phụ nữ, còn đứa trẻ mỏ lại nghe cười, tiếng cười của con trẻ mà lão Trì nghe thấy tiếng cười này nó quái thai như thế nào ấy:
Huuuuuu...ư.... ư.... . ư.........Há há.... . Há.......
Lão Trì nhìn vào miếu chả thấy có ai, theo tiếng cười lão ra bờ tường gần gốc mít. Lão nom thấy có ai ngồi đó, bên cạnh là đứa con trẻ chắc mới đồng cân lên hai, trần truồng đầu không một cọng tóc.
Giữa đêm khuya khoắt thế này mà lại dẫn con đi chơi rồi ngồi khóc thế này, chắc lạc đường, tội nghiệp-lão Trì chép miệng.
- Chị gì ơi, nhà ở đâu thế, bị lạc hả, trời ơi lạnh thế này sao không mặc áo xống cho cháu?vừa hỏi lão Trì vừa tiến lại gần.
Đứa con trẻ dứt cười hẳn, quay ngoắt lại nhìn Lão Trì, vừa chạy đến lão vừa kêu lớn:Áo, áo cho tao.
Tức thì người phụ nữ kia cũng ngẩng đầu lên, nửa mái tóc che khuất khuôn mặt đồng cân bại lộ cặp mắt sáng như dao cạo, nói với theo đứa bé:
- Được thì xin ông ta theo mẹ con mình thường xuyên con ơi, há há há há....... .
Tiếng cười của người phụ nữ khiến lão Trì thất kinh, cái lời thề dọa cho ma chạy té khói cuả lão biến đâu mất, lão chỉ kịp rú lên rồi chạy trối tắt thở về phía nhà ông Toản.
Ông Toản đang ngủ chiêm bao tơ màng nghe có ai hò hét rồi đập cửa ầm ầm, tưởng trộm liền vùng dậy vơ vội cây đòn gánh rồi mở cửa đánh mạnh vào đầu cái bóng đen đang đập cửa kia. lão Trì tiền kịp kêu Ối một tiếng rõ to rồi ngất xỉu. Ông Toản định thần một hồi mới thắp đèn soi rõ mặt cái thằng to gan kia là ai, thì ra là lão Trì.
Lão Trì xỉu một chặp thì tỉnh dậy, cũng may ông Toản tuổi cao cho nên sức đánh không mạnh lắm, nhưng cũng kịp để nguyên một quả cam lên đầu lão Trì. Nghe lão Trì kể hết chuyện, cả hai cùng thằng con giai lớn ông Toản đốt đèn ra cái dốc Miếu. Lão Trì vừa đi vừa run, tay bám chặt ông Trọng, trong đầu còn nhớ đến hai cái khuân mặt hãi hùng kia.
Trong miếu vắng tanh, chỗ gốc mít đồng cân còn một ít tiền vàng mã và áo binh đã nhàu nát, chẳng thấy mẹ con kia đâu cả. Nhưng như thế cũng đủ khiến cả ba chợn người.
Chờ một hồi không thấy động tĩnh gì, ai về nhà nấy. Lão Trì chèo mạnh chiếc ghe ra phía chòi, cố kỉnh tránh càng xa cái miếu càng tốt. Nhấc thử cái vó, lão thấy nằng nặng. Cái sợ hãi nó biến đâu mất, lão chắc mẩm phen này trúng đậm mẻ cá lớn. Hì hục một hồi lão cũng cất cái rớ lên được, rọi đèn vào giữa lưới, một lần nữa da mặt lão y chang như lúc hồi nãy gặp hai mẹ con ở dốc Miếu đôi. Trong lưới có người, mùi hôi thối bốc ra khiến lão Trì ói ngay tại chỗ.
4. Bắt ma
Cái tin lão Trì ngay một đêm vừa gặp ma, vừa rớ được người khiến cái làng Bích vốn yên phẩm bình nay nháo nhào lên hết cả, không ồn ã sao được khi lắm chuyện lớn như vậy xảy ra. Công an đến ngục nghiệm bảo cha nội Thắng trưởng thôn nhậu say về rồi té ngã chết trôi dưới sông, vớ cả neo người thuần tiền là một tai nạn. Nhưng dân làng Bích ai mà tin, mười người hết mười một người cho rằng cha nội Thắng tắt hơi cho ma dìm, nói như vậy để thấy cái nỗi sợ hãi đã bao trùm lên cả làng. Cha Thắng trưởng thôn tắt hơi đồng nghĩa với việc xuất hiện cái thi hài thứ năm trong vòng bốn tháng. Khúc sông đó đã vắng vẻ nay chả thấy một bóng người, cái đèn neon trong cái chòi của lão Trì cũng tắt ngúm, dường như lão cho qua làng khác rồi.
Tụi trẻ thơ trong xóm được thể sớm tối hát mấy bài vè, vừa hát mắt vừa lấm lét: Nghe vẻ nghe ve, nghe vè ma nước, một ông chết trước, kéo cả mấy ông, người thì tăng xông, kẻ thì ăn nhậu, mặt ai cũng xấu, dúm dó nhăn nheo, chắc hẳn ma theo, mẹ con xin áo.... .
Quán nước bà Bổi mấy ngày này khách đến rộn rịp cả lên, ai cũng đến ngóng xem câu chuyện thực hư thế nào. Bà Bổi tay rót nước miệng cứ đon đả, ra điều động bí hiểm:
- Ghê lắm danh thiếp bác ạ, nó kéo năm mạng rồi, có lão cất vó làng em còn bị nó dọa cho nát vía, bỏ làng đi mất đấy.
Đám đông càng nghe càng xôn xao, thần sắc ai cũng toát lên vẻ sợ hãi. Trong đám người ngồi uống nước bất bỗng có tiếng the thé vang lên:
- Hai vong này cũng dễ bắt.
Mọi ánh mắt đổ hồi về phía người vừa nói, là lão Ánh thầy cúng. Bà Bổi nhanh nhảu:
- Này, đừng có khoác, có giỏi ông đi bắt hai cái vong ấy về đây, cả làng này góp tiền thưởng ông.
Vuốt chỏm râu không lấy gì làm đẹp của mình, lão Ánh cười gằng:
- Cả làng cứ chung đồng cân để đó, tối nay ra dốc Miếu coi tôi bắt hai cái vong đó chơi. Nói đọan, lão đứng dậy bỏ đi thẳng.
Cả đám đông lại xì xào thêm, ai cũng bán tín bán nghi. Chỉ có một người tách khỏi đám đông lầm lũi tiến ra chiếc ghe, khua mái chèo về phiá khúc sông làng Bích, là cụ Bảy. Từ giữa sông từng câu hát cụ xa dần nghe ai oán, não nề:
Kìa mây đi mất, chim về núi sầu, thuyền đưa đủng đỉnh, chàng đâu chàng đâu.... .
Vừa chập mạch tối nhà ai cũng đóng cửa, mang tiếng đóng cửa nhưng ai cũng ngóng về phía dốc miếu Đôi coi lão Ánh bắt ma ra làm sao. Mấy đứa trẻ nít bạo phổi hơn, vừa chạy theo lão Ánh vừa hát vè. Lão Ánh tối nay mặc một đồ vàng chóe hệt như Lâm Chánh Anh trong phim cương thi, đồng cân khác là một bên phim ảnh, một bên đi bắt ma thật.
Lão Ánh bắt đầu bày đồ lễ ra giữa miếu, mấy ngọn nến vàng uột thắp sáng trưng cả miếu hòa lẫn cái màu đỏ ti tỉ của đèn khiến không gian thêm kì cọ bí. Lão đặt giữa bàn một cái thau có thứ nước sền sệt, bốc lên một mùi tanh lợm họng, chắc có lẽ là máu chó mực.
Viết vẽ máy hình rồng rắn lên mấy tấm bùa, lão bắt đầu làm phép. Một tay khua chuông, một tay cầm kiếm gỗ, lão hú hét những thứ tiếng gì chẳng rõ, thỉnh thoảng lại vơ một nắm gạo ném về phiá gốc mít, la lớn:
Ma, chim cút đi khỏi cây
Xuất vong khỏi đây
Trông dáng điệu của lão Ánh, mấy đứa trẻ nít bụm miệng cười khúc khích chứ không dám cười lớn. Dân làng thì ai nấy dỏng tai lên nghe, cố kỉnh căng mắt nhòm về phía dốc Miếu dẫu chỉ thấy màn đêm đen đặc và thứ ánh sáng yếu ớt từ ngọn nến và chiếc đèn hột lựu.
Cả thau máu chó bị lão Ánh hắt mạnh về phía gốc mít. Đột nhiên, từ gốc mít khói bốc lên mù mịt, có tiếng gầm rú thật kinh hoàng, ai nghe cũng phải bịt tai. Một cái bóng trắng nhờ ở giữa thân cây, quắc đôi mắt đỏ ngầu về phía lão Ánh, một cái nhìn quằn quại, đầy sự hận thù.
Lão Ánh đớ người, vừa ném gạo vừa la hét mấy thứ tiếng cổ nhưng có vẻ không ăn thua. Con ma vẫn ở đó, rũ rượi, thè chiếc lưỡi dính dáng đầy máu chó mực quét xuống tận đất.
Can dầu lão Ánh dung để phun lửa ngạc nhiên hắt thẳng vào người lão, một tiếng Ùm vang lên. Người ta nghe tiếng lão Ánh quằn quại, giãy giụa. Lão bây chừ như một bó đuốc sống, chạy mấy bước rồi ngã quỵ, mấy đứa trẻ em thất sắc, la lớn bỏ chạy khiến người dân túa ra đông vỡ chợ.
Khi chạy đến nơi, lão Ánh tiền còn một giúm, đen sì, bốc khói. Trên cây mít cũng chẳng còn ai.
Ở bến đò, cụ Bảy ngồi đờ đẫn nhìn đám đông túa ra dốc Miếu đôi. Cụ biết chuyện này thế nào cũng xảy ra. Vuốt cây đàn nhị, lão lại ngồi hát, những câu hát về phận người đầy bi ai.
day la noi dung footer
5. Chìa khóa
Sư Thiện Pháp vừa ngồi uống nước chè, vừa ngẫm lại man di sự đang diễn ra ở trong làng. Bây giờ tối đến chẳng ai dám ra đường, trẻ nít bị bắt ở yên trong nhà, khúc sông làng Bích giờ như vô chủ, hoang tàn , lạnh lẽo. Có vẻ chỉ còn cửa chùa là nơi khiến người ta cảm thấy yên bụng nhất.
Chú tiều lẽo đẽo chạy vào rót thêm nước sôi vào ấm, cắt ngang dòng suy nghĩ của sư.
- Con cứ để đó cho thầy.
- Bẩm thầy, nãy giờ có cụ Bảy ngồi chờ xin gặp thầy trước cửa chùa, con tính chất báo nhưng thấy thầy đang ngồi ngẫm nên.... .
- Sao không nói sớm, con ra mời cụ vào ngay cho thầy - sư Thiện Pháp vội vã.
Cụ Bảy ôm cây đàn chậm rãi tiến vào góc sân vườn chùa. Rót chén nước chè mời cụ Bảy, sư vẫn không giấu nổi vẻ hoài nghi. Cụ Bảy không nói gì uống cạn chén nước, sư Thiện Pháp lại rót đầy cho cụ, cụ lại bưng lên uống khảng khái. Đặt chén nước chè còn đọng ấm hơi xuống, cụ Bảy ôn tồn:
- Chắc sư thầy có nghe chuyện ma quỷ của làng ta.
- Bẩm cụ, tôi có. Thú thật, tôi cũng đang phiền bởi chuyện ấy đây, cụ biết cửa chùa thanh tịnh một lòng một dạ mở của từ bi xóa bỏ lỗi lầm. Phàm có chuyện gì cũng đều nhân ái bỏ qua, oan hồn thực chất mà nói cũng chỉ là bởi chưng oán khí tích tụ mà nên. Tôi thiển nghĩ linh hồn này vững chắc có chuyện oan trái, ngặt một nỗi nhà chùa chưa thể hóa duyên áp giải ngộ cho nó được.
- Sư thầy cũng tin có ma quỷ? - cụ Bảy hỏi giọng chắc nịch.
- Có chứ, hề là người đều có phần linh hồn phần xác, khi chết đi chỉ còn phần hồn. Thường thì vong hồn sẽ sang đầu thai làm kiếp khác, nếu không thì có chuyện gì khúc mắc phần vong linh mới luẩn quẩn như vậy.
Nén tiếng thở dài, cụ Bảy vừa nhìn xa vừa nói:
- Chuyện cũng là bởi vì tôi. Cách đây bốn tháng, vào chiều mùng một Tết khi đó tôi đang câu cá ở mé sông thì thấy đằng xa có một cô gái đi thẳng đến chỗ tôi, nhờ tôi chở sang sông. Lúc đó đã chiều, trời đất đã gần tối, lại thấy sắc mặt cô gái có vẻ không tốt nên tôi đâm nghi, chưa ra đò vội. Gặng hỏi mãi thì cô ấy mới khóc, một hồi vừa khóc vừa kể cho tôi biết cô lỡ yêu một thằng họ Sở. Tên này sau khi khoắng sạch mệnh chỉ cô tích cóp được thì trốn biệt, còn để lại một đứa bé trong bụng cô. Nhục nhã, ê chề, cô đi lang thang đến làng ta thì gặp tôi, nhờ tôi đưa sang sông. Lúc ấy, tôi tôi cũng chủ quan, nghĩ cô chưa ăn gì thành ra an ủi vội mấy câu rồi bảo cô ngồi chờ, tôi lên quán bà Bổi xem còn thứ gì ăn được thì mang xuống cho cô ấy. Ngờ đâu lúc trỏ xuống đã thấy chiếc đò của tôi ở giữa sông, biết có sự chẳng lành tôi mượn tạm chiếc ghe lão Trì chèo ra đến nơi thì không thấy cô ấy đâu, trên đò đồng cân còn mẩu giấy kể tội nghiệp kẻ bạc tình kia và nhờ tôi giữ hộ một vật. Sư thầy không biết chứ tôi đã lặn mò suốt cả đêm ấy mới thấy được thi thể cô ấy. Ngày đầu năm, không muốn dân làng xôn xao, tôi đem cô ấy chôn trợ thời vào gốc mít rồi lửa hương cho cô ở Miếu dốc đôi, ngờ đâu bây giờ cô ấy quấy quá.
Sư Thiện Pháp trầm ngâm, giờ thì sư đã rõ mọi rợ chuyện. Sư không ngờ ở cái làng bé nhỏ này lại tồn tại một câu chuyện mang kết cuộc bi thương như vậy. Như chợt nhớ ra điều động gì, sư Thiện Pháp sốt sắng hỏi cụ Bảy:
- Cụ còn giữ vật đó không?
Cụ Bảy lần mấy lớp áo đưa ra một vật, Sư Thiện Pháp trông thấy giây lát kinh hãi. Sư hỏi dồn dập:
- Có phải cô gái đó mặc áo bà ba màu hồng, cắt tóc ngắn, khoảng 25 tuổi phải không cụ?
Đến lượt cụ Bảy ngớ người:-sư thầy cũng biết cô gái đó?
Làm sao sư Thiện Pháp quên được nụ cười buồn, cái ánh nhìn chất chứa cả thương đau và đầy thù hận của cô gái đó chứ. Nhìn xuống chiếc dính dáng chuyền bạc lấp lánh, sư thở dài, đấu vật còn đây mà người đã ra thiên cổ.
- Tối nay cụ đi với tôi ra đó - sư nói chắc nịch, vẻ mặt không chút e dè.
Dốc Miếu đôi mới hơn tám giờ đã heo hút, vắng lạnh rợn người. Mấy nhà xung quanh cũng tránh đi đâu mất, phải khó khăn lắm sư Thiện Pháp và cụ Bảy mới chong đèn đến được đây, giữa cái nơi mà màu đen của màn đêm và tiếng ếch nhái đang làm chủ nơi này.
Cắm bó nhang đỏ rực xuống gốc mít, sư Thiện Pháp rầm rì đọc mấy bài Kinh Địa Tạng, Cầu Siêu, sắc mặt nghiêm trang. Cụ Bảy đứng bên, tay vân vê điếu thuốc lào đỏ rực, tha thẩn nghe mấy lời kinh kệ.
Hồi lâu, sư dừng lại, khấn rõ to cốt yếu để cho cả cụ Bảy chứng kiến:
- Nữ bố thí chủ, ta và bố thí chủ có duyên gặp nhau nhưng không có duyên giác ngộ, đó cũng là lỗi lớn vì chưng ta mà ra. Phàm là tăng ni thì phải mở cửa từ bi, lắng tai mọi rợ điều động chúng sanh giãi bày. Ấy thế mà ta sơ suất, không biết được nữ bố thí chủ có một nỗi tâm tình lớn như vậy. Nay việc đã rồi, hà cớ thí chủ còn chưa siêu thoát. Gieo nhân nào gặt quả ấy, kẻ bạc tình kia rồi cũng sẽ bị báo ứng. Thí chủ đừng ngay ngáy mối hận cừu mà làm tắt nghỉ bao người vô tội, đâm linh trong bụng bố thí chủ cũng cần thời cơ đầu thai làm người. Nay bần tăng mạn phép cùng cụ Bảy đây đem tro cốt của thí chủ chôn cất trong chùa, mong bố thí chủ sớm siêu thoát, bất tất phải ở chốn đây làm ma hại người. Nếu bố thí chủ đồng ý, thì xin làm bó nhang cháy sáng lên ba lần cho chúng tao được rõ.
Lặng đi hồi lâu không thấy có động tĩnh, cụ Bảy tính chất lên tiếng thì sư Thiện Pháp ngăn lại:
- Nữ thí chủ, lời của bần tăng thí chủ nghĩ chưa thông suốt sao.
Một sự êm ắng đến lạ thường, cụ Bảy nghe dòng máu trong thân thể mình như đang chảy mạnh hơn, cả cụ và sư Thiện Pháp đều nín thở.
Bất đột nhiên có tiếng hét nghe đến xé lòng từ trên cây mít vọng xuống, liền ngay tức thì bó nhang cháy rực lên ba lần rồi tắt ngấm. Sư Thiện Pháp nhắm mắt xuôi tay đọc kinh, nói vọng qua cụ Bảy:
- Cụ thực hiện được rồi.
Nhờ có lời giải thích của sư Thiện Pháp và lời kể của doc truyen sex, truyen heo, truyen dam moi nhat cụ Bảy, dân làng mới rõ và thương tiếc cho cô gái áo hồng kia. Khúc sông bắt đầu có người qua lại, đã lâu cũng không còn thấy ai nộp mạng trên đoạn sông này. Người lớn, con trẻ hớn hở ra mặt, tiền có bà Bổi là buồn chút ít vì lượng khách đến hóng chuyện sụt giảm. Tuy vậy, ấn tượng về câu chuyện và hai vong hồn cũng khiến cho dốc miếu Đôi vắng vẻ và hoang tàn đi nhiều, sự lạnh lẽo vẫn còn bao trùm nơi đây.
Nhật Hoàng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét